Bức thư đầu tiên thể hiện sự quan tâm của Bác Hồ với anh bộ đội, là bức thư Người viết vào đêm 20/01/1946 (tức 19 tháng chạp), sắp đến tết Bính Tuất 1946. Đó là những ngày giáp tết. Lúc này, Cách mạng tháng Tám thành công mới được hơn bốn tháng, chính quyền cách mạng non trẻ phải đương đầu với muôn vàn khó khăn: Nạn đói (với hai triệu người vừa chết đói trong năm Ất Dậu 1945), nạn ngoại xâm (Pháp trở lại xâm lược, rồi giặc Tưởng Giới Thạch tràn vào), nạn giặc dốt (hơn 90% Nhân dân mù chữ), tài chính khô kiệt. Là người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, bận trăm công nghìn việc nhưng Người vẫn rất quan tâm đến quần chúng, trước hết là các chiến sĩ Quân đội và gia đình bộ đội. Trong bức thư gửi ngày 20/01/1946, Người đã mở đầu: “Tết Bính Tuất sắp tới. Trong lúc này, đồng bào cả nước ta ai cũng sửa soạn ăn tết mừng xuân...tôi kêu gọi đồng bào và các đoàn thể làm thế nào để chia sẻ cuộc vui chung ngày tết với các chiến sĩ oanh liệt ngoài mặt trận, những gia quyến của các chiến sĩ...sa
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù bận trăm
công ngàn việc của người lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Bác Hồ vẫn luôn luôn dành tình yêu thương đặc biệt cho cán bộ, chiến sĩ
Quân đội. Người thường xuyên quan tâm, chia sẻ với những khó khăn, vất vả mà họ phải trải qua. Đúng như Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đã viết trong bài hồi ký “Từ Nhân
dân mà ra”:“Bác Hồ là người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam. Bao giờ Người cũng dành tình cảm thắm thiết cho anh bộ đội, coi anh
bộ đội như con đẻ của mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng huy hiệu cho chiến sĩ lập nhiều chiến công trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Bức thư đầu tiên thể hiện sự quan tâm của Bác Hồ với anh bộ đội, là bức
thư Người viết vào đêm 20/01/1946 (tức 19 tháng chạp), sắp đến tết Bính Tuất
1946. Đó là những ngày giáp tết. Lúc này, Cách mạng tháng Tám thành công mới được
hơn bốn tháng, chính quyền cách mạng non trẻ phải đương đầu với muôn vàn khó
khăn: Nạn đói (với hai triệu người vừa chết đói trong năm Ất Dậu 1945), nạn ngoại
xâm (Pháp trở lại xâm lược, rồi giặc Tưởng Giới Thạch tràn vào), nạn giặc dốt
(hơn 90% Nhân dân mù chữ), tài chính khô kiệt. Là người lãnh đạo cao nhất của Đảng
và Nhà nước, bận trăm công nghìn việc nhưng Người vẫn rất quan tâm đến quần
chúng, trước hết là các chiến sĩ Quân đội và gia đình bộ đội. Trong bức thư gửi
ngày 20/01/1946, Người đã mở đầu: “Tết
Bính Tuất sắp tới. Trong lúc này, đồng bào cả nước ta ai cũng sửa soạn ăn tết mừng
xuân...tôi kêu gọi đồng bào và các đoàn thể làm thế nào để chia sẻ cuộc vui
chung ngày tết với các chiến sĩ oanh liệt ngoài mặt trận, những gia quyến của
các chiến sĩ...sao cho mọi người đều được hưởng cái tết vui vẻ đầu tiên của nước
Việt Nam độc lập”. Tình yêu thương chiến sĩ của Bác đã thấm đượm trong từng
câu, từng chữ khiến cho người đọc phải cảm động.
Một năm sau, sắp đến tết Đinh Hợi 1947, Người lại nhắc toàn dân phải nhớ
đến bộ đội đang xông pha ngoài mặt trận. Lúc này, cuộc kháng chiến chống Pháp vừa
mới bùng nổ từ đêm 19/12/1946, hàng vạn thanh niên hăng hái lên đường chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc. Trong bức thư viết tháng giêng năm 1947, Bác nhấn mạnh: “Trong khi đồngbào ở hậu phương sum họp ấm
cúng đón tết tại gia đình thì các em phải chịu nhiều gian khổ, ăn gió nằm sương
ngoài mặt trận... Các em ăn tết thế nào? Tôi và nhân viên Chính phủ vì nhớ về các
em mà không ai nỡ ăn tết”...“Bao giờ kháng chiến thành công/Chúng ta cùng uống
một chung rượu đào”.
Những ngày xuân Đinh Hợi ấy, những dòng thư ân tình của Bác đã sưởi ấm
lòng biết bao chiến sĩ. Qua những lời thư ấy, người ta thấy vị lãnh tụ của mình
thật là gần gũi, giản dị, thân thiết. Tình cảm ruột thịt giữa Bác Hồ với anh bộ
đội được thể hiện rất rõ. Biết bao chiến sĩ đêm giao thừa năm ấy nghe thơ Bác
đã rưng rưng nước mắt.
Suốt cuộc đời mình, Người thường xuyên quan tâmđếntừngviệc nhỏ, đến
cáiăn, cái ở của anh bộ đội: “Cán bộ
không có đội viên thì không làm gì được. Bởi vậy, cần phải thương yêu đội viên.
Từ Tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống phải săn sóc đời sống vật
chất, tinh thần của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình
đói. Bộ đội chưa có áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở,
cán bộ không được kêu mình mệt” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 105).
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có một mùa đông người chiến sĩ
không bao giờ quên. Lúc bấy giờ, năm mới sắp đến. Cái rét mướt của mùa đông
cũng đã về, lập tức Bác Hồ chỉ thị cho Tổng cục Cung cấp (nay là Tổng cục Hậu cần)
gửi ngay áo ấm cho bộ đội để các anh giữ được sức khỏe, đánh thắng giặc Pháp
xâm lược và Bác làm ngay bài thơ:
"Đêm khuya se lạnh, mưa như trút/ Sáng sớm mây mờ lẫn với sương/Áo ấm gửi
ngay cho chiến sĩ/Trời loe nắng ấm, báo xuân sang”.
Qua đó ta thấy Bác Hồ dù bận rộn việc nước vẫn hết sức quan tâm đến cuộc
sống thường ngày của người chiến sĩ. Cứ mỗi lần thời tiết đổi thay là Người nhớ
ngay đến việc giữ gìn sức khỏe cho bộ đội. “Áo
ấm gửi ngay cho chiến sĩ”. Lời thơ là lời nhắc nhở tận tình, sự quan tâm
chu đáo đến từng cái nhỏ. Bài thơ làm toát lên tình cảm sâu sắc của Người, coi
chiến sĩ thân thiết, gần gũi như con em ruột thịt của mình. Câu thơ cuối Bác vẽ
ra trước mắt người đọc một viễn cảnh tươi sáng: “Trời loe nắng ấm, báo xuân sang”.
Nhân ngày thương binh liệt sĩ đầu tiên (1947), Bác đã viết một bức thư
nói rõ tấm lòng mình qua đó ta thấy Người thương yêu, quý mến bộ đội, thương
binh, liệt sĩ biết chừng nào: “Tôi không
có gia đình. Tôi không có con cái. Đất nước Việt Nam làđại gia đình của tôi,
các thanh niên là con cháu của tôi, ... mất đi một thanh niên là tôi mất đi một
đoạn ruột...
Những ngày họ chưa mất đi, vợ của
họ còn là vợ thơ, con của họ còn là con dại. Nhưng khi họ trở thành liệt sĩ, vợ
thơ thành vợ góa, con dại thành con côi... Thưa toàn thể đồng bào! Của cải mất
đi còn có thể lấy lại được, nhưng chân tay không bao giờ mọc lại được nữa và những
liệt sĩ không bao giờ có thể sống lại được nữa, vậy tôi thiết tha mong đồng bào
hãy thương lấy các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội”.
Đọc những dòng thư ấy bao nhiêu người đã đọc và bao nhiêu người đã khóc.
Nước mắt đã chảy trên gò má sạm thuốc súng của anh bộ đội trên tiền tuyến, nước
mắt đã chảy theo những vết nhăn nheo của mẹ già ở hậu phương. Tình thương của
Bác đối với bộ đội, thương binh, gia đình liệt sĩ toát lên qua từng dòng chữ.
Tình thương của Bác đối với anh bộ đội còn thể hiện ở chỗ: Bác gửi lòng
tin tuyệt đối vào người chiến sĩ. Anh bộ đội biết vượt mọi gian khổ hy sinh để
chiến thắng, anh bộ đội đã đánh là thắng như trong bài thơ chúc Tết Đinh Hợi của
Người năm 1947: “Cờ đỏ sao vàng tung bay
trước gió/Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông/Toàn dân kháng chiến, toàn diện
kháng chiến/Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng/Tiến lên chiến sĩ, tiến lên đồng
bào/Sức ta đã mạnh, người ta đã đông/Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!/Thống
nhất độc lập nhất định thành công!”./.
Và trong cái tết cuối cùng trước lúc đi xa, mặc dù cuộc kháng chiến đang
ở giai đoạn ác liệt, biết còn phải trải qua nhiều gian khổ, hy sinh, nhưng Người
vẫn gửi niềm tin đến người chiến sĩ, đến toàn dân tộc: “Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/ Vì độc
lập! vì tự do/ Đánh cho Mỹ cút! Đánh cho Ngụy nhào!/ Tiến lên chiến sĩ đồng
bào!/ Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn(Mừng xuân69).
Lời khẳng định ấy, niềm tin ấy của Người đã thành sự thật, 6 năm sau,
vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 30/4/1975, lá cờ chiến thắng đã tung bay giữa Sài
Gòn. Cùng với toàn dân đã làm nên chiến thắng vĩ đại, xứng đáng với lòng tin
yêu của Bác./.