Bánh chưng là món ăn truyền thống của người Việt trong ngày
Tết. Xét về nguồn gốc thì bánh chưng đã có từ lâu đời, từ hàng ngàn năm trước
đây. Theo truyền thuyết thì vào đời Vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi đánh xong
giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua cho họp các
hoàng tử lại và phán rằng: “Trong số các con ai tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất
thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”.
Bánh chưng tết xuất hiện từ thời Vua HÙng Vương, đời thứ 6, trước Công
nguyên.
Thế là các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ để
dâng lên vua cha với hi vọng mình sẽ được nhận ngai vàng. Riêng người con thứ
18 của Vua Hùng là Lang Liêu, vì mẹ mất sớm không có ai bày vẽ cho nên rất lo
lắng không biết làm thế nào để có lễ vật
dâng lên vua cha. Đang khi bối rối thì có một đêm, trong giấc ngủ, Lang Liêu mơ
thấy gặp một vị thần, Lang Liêu hỏi thì thần nói rằng: “Con ạ! Trong trời
đất không có gì quý bằng gạo vì
gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp
làm bánh hình tròn và hình vuông để tượng hình trời và đất, rồi sau đó hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh để tượng hình cha
mẹ sinh thành”. Nghe vậy, Lang Liêu rất mừng rỡ và
làm theo lời thần dặn. Lang Liêu đã chọn gạo nếp thật
tốt làm bánh vuông để tượng trưng cho đất, bỏ vào chõ rồi chưng cho chín, gọi
là bánh chưng. Rồi Lang Liêu giã nếp làm bánh tròn tượng trưng cho trời, gọi là
bánh dày. Lá xanh thì bọc ở ngoài, nhân thì ở trong ruột bánh là tượng hình cha
mẹ yêu thương đùm bọc con cái. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều mang đến cho vua
các thứ quý giá nhất như ngà voi, ngọc trai,... Đến
khi Vua Hùng nếm thử bánh của Lang Liêu, thấy vị ngọt ngọt, bùi bùi, hương vị
trời đất như giao hòa, quyết định chọn lễ vật của Lang Liêu. Vua truyền ngôi
lại cho Lang Liêu, sau đó phổ biến loại bánh của Lang Liêu cho toàn dân. Từ đó,
phong tục làm bánh chưng ngày tết đã ra đời và kéo dài cho đến tận ngày nay.
Từ đó đến nay, mỗi khi tết đến xuân về dù người
Việt ở đâu cũng không bao giờ thiếu chiếc bánh chưng xanh trong mâm cỗ ngày tết
cổ truyền, nhà nào cũng có dăm ba cặp bánh để cúng tổ tiên. Có thể nói trong
tâm thức người Việt, truyền thống nấu bánh chưng thể hiện đạo lý “Uống nước
nhớ nguồn” bánh chưng không đơn thuần là món ăn đặc trưng của dân tộc mà đã
trở thành nét đẹp của con người Việt Nam và mang ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân
sinh. Là món ăn truyền thống của người Việt, bánh chưng được ví như linh hồn
của bữa cơm ngày trọng đại, đặc biệt là ngày tết. Từ rất lâu bánh chưng đã xuất
hiện ở mâm cỗ để thờ cúng, thể hiện sự biết ơn trời đất cho mưa thuận gió hòa
để mùa màng bội thu, từ đó đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người.
Không những thế, chiếc bánh chưng xanh còn gợi cho ta nhớ đến niềm mơ ước an
cư, lạc nghiệp của con người, bánh chưng có nhân nhụy vàng, thịt mỡ chín,... là
màu mỡ của lúa chín đồng quê, của đời sống chăn nuôi yên vui của xóm làng.
Bên cạnh đó, chiếc bánh chưng còn gói ghém trong đó cả một
nền văn minh nông nghiệp lúa nước và là sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi.
Bên ngoài bánh chưng là chiếc lá dong gói bánh có sẵn từ thiên nhiên, bên trong
được chế biến từ nguồn nguyên liệu nấu ăn của dân tộc: gạo nếp, đỗ xanh, hành,
thịt lợn,...
Bánh chưng tết cũng thể hiện được chữ hiếu của người con với
cha mẹ mình. Vì thế mà phong tục dùng bánh chưng là quà biếu dâng lên cha mẹ
cũng từ đây mà có.
Trong ngày tết cổ truyền, hình ảnh cả gia đình quây quần bên
nồi bánh chưng thật là đẹp và ý nghĩa. Một cái tết sẽ không trọn vẹn nếu thiếu
màu xanh của bánh chưng.
Có thể nói bánh chưng đã trở thành một nét văn hóa, một món
ăn truyền thống và lâu đời ở Việt Nam. Nét độc đáo này đã góp phần làm đẹp thêm
hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Dù ai ở xa quê cũng đều mong được
về nhà để ngồi bên nồi bánh chưng mỗi dịp giao thừa đón năm mới./.